Nếu như trước đây, Gravity và Interstellar từng chiếm trọn cảm tình của khán giả yêu thích những bộ phim về đề tài viễn tưởng, du hành không gian thì chắc chắn The Martian cũng có thể làm được như vậy và thậm chí còn hơn thế nữa. Trong khi Gravity mang tính nghiêm túc, Interstellar thì lại đi sâu vào khoa học cùng những lí thuyết khiến người xem quay cuồng thì The Martian mang chút gì đó bình dị, liều lĩnh và phiêu lưu. Chính những yếu tố này đã biến The Martian trở thành tác phẩm phù hợp với đại chúng hơn.
Trong bài viết này, lamphimquangcao.tv sẽ thuật lại quá trình dàn dựng và thực hiện bộ phim bom tấn này:
Quá trình edit The Martian
Người ta thường thích nghe về những gì mà một editor thực hiện ở khâu hậu sản xuất. Trích đoạn cuộc trò chuyện giữa Studio Daily và editor Pietro Scalia sẽ mang đến cái nhìn cụ thể hơn về quá trình edit bộ phim.
“Quá trình quay phim chủ yếu ở định dạng stereo 3D với 11 máy quay RED bao gồm máy Epic Draqgon và Scarlet Dragon với ống kính Angenieux Opimo cùng nhiều máy GoPro Hero4cameras khác. Một nhóm editor đã kết nối 10 hệ thống MC qua bộ lưu trữ ISIS và thêm vào nhiều dữ liệu hơn trong quá trình chỉnh sửa. Khi sử dụng nhiều máy quay cùng nhiều bộ rig khác nhau, công việc sẽ trở nên phức tạp hơn nhưng trợ lý của tôi và đội ngũ kỹ thuật và edit visual effect giàu kinh nghiệm đã đơn giản hóa mọi thứ để kịp tiến độ edit. Cuối cùng, chúng tôi mất khoảng 250 giờ để xử lý footage và khoảng 60-70 xử lý footage từ máy GoPro. Tôi tưởng chừng như không thể thực hiện nếu không có hệ thống hỗ trợ cùng với đội ngũ quản lý lưu trữ trên ISIS.”
Steve Hullfish cũng đã có một buổi trò chuyện với PVC về sự nghiệp của mình và cả việc cộng tác với Oliver Stone trước khi bắt tay thực hiện công việc hậu kỳ và edit The Martian.
“Một phần thách thức chúng tôi gặp phải là làm cho bộ phim trông thực nhất có thể và vẫn giữ được tinh thần của nguyên tác. Matt Damon đã thực hiện rất tốt việc này khi mang đến tiếng nói cho nhân vật. Kịch bản và bản gốc có rất nhiều điểm giống và khác nhau. Công việc của tôi là vẫn bám sát kịch bản, giữ lại những cung bật cảm xúc từ hài hước đến căng thẳng trong suốt quá trình edit và cân bằng các yếu tố đó cùng lúc.”
Pietro cũng có vài lời khuyên dành cho editor về Nhân vật, câu chuyện và cấu trúc phim…
“Cuối cùng là về cấu trúc phim. Bạn phải xem xét xem liệu cảnh này sẽ chuyển tiếp đến cảnh khác hay không. Mỗi lần như vậy sẽ cho ra nhiều hiệu ứng khác nhau diễn ra sau đó. Trong một phân cảnh giữa phim theo kịch bản là tàu Hermes hiện ra tái hiện lại tai nạn xảy ra ở Sao Hỏa. Mọi thứ diễn ra theo đúng kịch bản và bộ phim có thể bắt đầu không cần tái hiện lại vụ tai nạn. Nhưng khi edit theo kịch bản, bộ phim chỉ dừng lại hoàn toàn trong 40 phút. Vì thế chúng tôi đã cấu trúc lại nó và đưa đoạn flashback vào đầu phim. Việc này nhìn có vẻ bình thường quá nhưng rất hợp với bộ phim. Khi phát hiện ra Mark Watney còn sống và nghĩ về phi hành đoàn của mình, chúng tôi biết mình nên làm gì tiếp theo.”
Nhà biên tập phim Steve Hullfish cũng đã có một buổi trò chuyện chi tiết với editor Cheryl Potter bao gồm nhiều ảnh chụp màn hình từ Media Composer bins và timelines.
“Ngoài phim trường, Mary Lobb sẽ là người phụ trách kiểm soát và lưu trữ dữ liệu trên thẻ nhớ qua Google doc, vì vậy chúng tôi có thể truy cập và theo dõi xem phim quay đến đâu rồi hay đã hoàn thành bao nhiêu phân cảnh. Trước khi tôi tiếp nhận những phần đó, trên phim trường sẽ có sẵn một colorist đảm nhận phần chỉnh màu cho set đó từ CDLs(color decision lists) có sẵn. Dữ liệu trong thẻ nhớ sẽ chuyển đến Fluent Image để chuyển sang dạng dailies (footage thô chưa qua chỉnh sửa) và digital negative (DNG).
Họ cũng trang bị một bộ hệ thống set up với đội hậu kì. Họ sẽ đọc thẻ nhớ và chuyển nó sang file R3D. Tiếp đến họ sẽ lưu trữ nó ở định dạng DNG và gửi các cuốn băng LTO (Linear Tape-Open) để chúng tôi có thể sao lưu ở nơi khác. Họ cũng tạo ra bộ DBxHD 36 media đã được chuyển mã với CDL được áp dụng trên set, vì thế chúng tôi đã có bộ look set dạng dailies. Sau đó Fluent sẽ truy cập vào ISIS để thiết đặt DNxHD 36 trực tiếp từ nó giúp chúng tôi tiết kiệm được thời gian copy.”
Khi thực hiện phim The Martian, chúng tôi đều xem các file dailies hằng ngày. Đây là một phần quan trọng và tôi không nghĩa nhiều người sẽ xem nó cùng với đạo diễn vì họ có thể lấy các file dailies đó trên PIX hay từ máy tính. Tôi nói với Ridley rằng tôi rất thích phần này. Những ngày sau đó chúng tôi cùng các nhà thiết kế sản xuất (production designer) và đạo diễn hình ảnh (DP- Director of Photography) xem các file dailies với rượu và thức ăn nhẹ qua chiếc monitor 60 inch trong định dạng 3D. Việc này giúp tôi hiểu và lắng nghe những ý kiến sáng tạo từ DP và production designer. – Pietro Scalia.
Quá trình color grading (chỉnh màu) The Martian
Stephen Nakamura là một colorist bậc thầy trong ngành làm phim và chịu trách nhiệm về phần nhìn của The Martian. Post Perspective đã có một buổi trò chuyện ngắn với Nakamura bao gồm sự phức tạp của việc cung cấp các thông số kỹ thuật chiếu khác nhau cũng như tạo ra cái nhìn toàn diện về bộ phim dày đặc hiệu ứng VFX.
“Tôi và giám sát hiệu ứng hình ảnh, Richard Stammers, đã dành nhiều giờ để bàn luận về phần nhìn của bộ phim. Có một vài shot thay thế như cảnh trời và các dãy núi thêm vào ở background. Đội ngũ của Richard đã tạo ra những yếu tố thêm vào này bằng sự kết hợp các tấm CGI quay tại Jordan và gộp chúng lại với bộ ảnh đầu tiên của Matt Damon.
Sau đó tôi sẽ thêm vào các màu sắc ứng với ý Ridley muốn như là màu cam hay tạo hiệu ứng cho từng yếu tố trong cảnh quay. Bạn hoàn toàn không biết trước được bề mặt trái đất ở địa điểm quay và trong rạp phim trông như thế nào cho đến khi xem nó. Tôi đã thay đổi tiền cảnh và hậu cảnh một chút và cùng ngồi lại với Richard và Ridley để thảo luận về từng cảnh quay.”
Quá trình Giàn dựng Âm thanh cho The Martian
Đoạn clip 17 phút trên đã cho thấy được quá trình làm việc của nhà soạn nhạc Harry Gregson-Williams và cái duyên cộng tác với đạo diễn Ridley Scott.
“Trong thời buổi ngày nay, bạn phải học được cách sử dụng bộ công cụ music sequencer. Bạn phải mang bản demo công việc bạn làm đến cho đạo diễn để họ xem xét và đánh giá. Đây là một sự cộng tác. Ridley đang loay hoay tìm kiếm thứ gì đó cho bộ phim của mình khi tôi bắt đầu viết nhạc. Anh ấy xáo trộn mọi thứ từ việc gạt bỏ các cảnh quay yêu thích với nhau đến những cảnh xuất hiện ở gần đầu phim và kết thúc ở cuối phim trong đoạn final cut. Cái duyên đã đưa anh đến với studio của tôi và nghe những bản nhạc tôi thực hiện và đưa ra những nhận xét đánh giá qua đó giúp chúng tôi hiểu nhau và bắt đầu cộng tác.” – Harry Gregson- Williams.
Post Perspective đã phỏng vấn nhà thiết kế âm thanh và editor Oliver Tarney về quá trình cộng tác thực hiện bộ phim. Đối với tất cả các công nghệ số có sẵn hiện nay, bạn sẽ gặp phải thuật ngữ “worldizing”, mà theo giám sát Dialogue / ADR Rachael Tate giải thích là:
“Từ những ngày đầu, đội ngũ edit đã thử nghiệm nhiều DAW plug-in đa dạng khác nhau nhưng cuối cùng nhận ra rằng kết quả thu được khả quan nhất lại đến từ worldizing. Chúng tôi đã thực hiện một số cuộc hội thoại khi đội mũ bảo hiểm qua bộ Avantone speaker được đặt bên trong nón chúng tôi sản xuất bằng việc sử dụng một micro Sanken Cos-11 lavalier được gắn bên trong để ghi lại kết quả. Ngay khi bắt tay vào thực hiện, tôi đã có setup này như là tín hiệu Aux send (auxiliary send) từ bộ phần mềm Pro Tools. Việc sắp xếp như tế này hoàn toàn ứng với chứng sợ không gian hẹp mà Ridley đang tìm kiếm.”
Hiệu ứng Visual Effects trong The Martian
Trong video này, Mike Seymour đến từ FX Guide đã chia sẽ về những thách thức trong quá trình làm hiệu ứng VFX cho bộ phim từ việc tạo ra cảnh quan Sao Hỏa, phản chiếu trên bề mặt nón của các phi hành gia hay loại bỏ bầu trời và nhiều thứ khác.
Trích đoạn bên dưới từ các nghệ sỹ của MPC VFX đã nói chi tiết cách họ tạo ra một công cụ mới đặc biệt nhằm xử lý bầu trời trong cảnh quay sản xuất ban đầu, giúp tiết kiệm thời gian và công sức cho công việc rotoscoping .
“Hầu hết các công cụ blue spill tool chúng tôi thử nghiệm đều dựa trên nguyên tắc “IF”. Chẳng hạn như: “Nếu pixel cụ thể nào đó có giá trị Blue lớn hơn Red và Green, thì nó cần phải được điều chỉnh lại”. Các công cụ này bắt đầu có vấn đề và buộc chúng tôi phải viết một công cụ khác cho NUKE. Tôi đã lên ý tưởng về cách thức đó hoạt động ra sao và tổ trưởng tổ 2D tại MPC, Alex Cernogorods, đã viết các đoạn mã và mách cho tôi cách điều khiển chúng.”
“Về nguyên lý hoạt động của ETM, công cụ này sẽ quét và tìm ra màu xanh rồi sử dụng thuật toán độc quyền loại bỏ nó. Chúng tôi có thể kiểm soát được màu sắc nào sẽ thay đổi và thay đổi ra sao. ETM cũng sẽ xuất ra các kênh alpha cho các thay đổi liên quan đến việc cân chỉnh màu. Công cụ này hoạt động tốt hơn bộ công cụ tiêu chuẩn hiện tại và giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho công việc rotoscoping. ETM hoạt động tốt đến mức chúng tôi đã tạo ra một công cụ green spill tool khác dựa trên thuật toán tương tự để giải quyết các cảnh quay trên phong nền xanh trong phim.”
Animation World Network, công ty từng thực hiện việc chuyển đổi 3D cho phim Gravity bằng việc tối ưu hóa Fusion pipeline, cũng đã đảm nhận công việc tương tự cho bộ phim lần này. Đại diện của công ty chuyên sử dụng Blackmagic Design Fusion Studio đã có một buổi trò chuyện với Prime Focus World.
“Một thách thức trong việc tạo ra thế giới stereo 3D cho The Martian đã được giải quyết bằng cách sử dụng Fusion Studio để soạn thảo công cụ View-D pipeline tool đặc biệt cho các cảnh quay của PFW.
Ridley đã hoàn thiện các cảnh phim của mình trong quy trình DI (Digital Intermediate) như là một phần về nét trực quan riêng của bộ phim và bạn có thể thấy rõ ràng điều này trong suốt quá trình chúng tôi thực hiện trailer. Quy trình chuyển đổi của chúng tôi về các vấn đề riêng biệt đã có khởi sắc mà bạn không tài nào nhận ra được ở dĩa phim bình thường.”
“Để xử lý vấn đề này, các cảnh quay sau đó sẽ được đưa vào Fusion để cân chỉnh lại màu sắc và điều chỉnh lại một số chỗ. Điều này có nghĩa là tôi có thể xem cả phiên bản đĩa bình thường giao cho khách hàng và phiên bản đã được chỉnh màu và cân chỉnh khi ra rạp, do vậy tôi có thể dễ dàng xác định được mỗi khía cạnh nhỏ khác nhau của nó. Sản phẩm chúng tôi tạo ra luôn làm hài lòng khách hàng.”
MPC đã tung ra đoạn clip dài 4 phút về các hiệu ứng visual effect họ thực hiện cho bộ phim từ mô phỏng lại cảnh quan trên Sao Hỏa cho đến việc phản xạ vật thể lên tấm kính trên nón của các phi hành gia. Với tư cách là người đảm nhiệm hiệu ứng VFX chính cho bộ phim, MPC đã xuất sắc hoàn thành 424 shot hoàn chỉnh.
Studio Daily đã có một buổi trò chuyện với VFX Supervisor, Richard Stammers về những chi tiết thú vị xoay quanh những thách thức mà anh và cộng sự phải đối mặt và vượt qua khi thực hiện VFX cho The Martian. Sau đây là trích đoạn chia sẻ của anh:
“Bản vẽ “RidleyGrams” đã giúp đạo diễn Ridley Scott nổi tiếng. Trong bộ phim lần này ông có nhiều bản vẽ tương tự thế không?
Ridley Scott đã thực hiện storyboard trong suốt quá trình làm phim. Ông bắt đầu với 4 hoặc 5 bản vẽ mỗi trang trong kịch bản rồi sau đó lấp đầy những chỗ còn trống. Ông cùng tổ previs và tôi ngồi hàng giờ liền để vẽ những gì còn thiếu trong storyboard đó. Trên phim trường ông cũng vẽ kể cả khi hậu sản xuất, ông vẫn nhìn vào bản edit đó rồi in ra các khung hình và vẽ trên đầu khung. Ở cảnh xe thám hiểm đi trên vùng bằng phẳng rộng lớn, Ridley đã phác thảo bằng bút chì trên các tấm kính ảnh về vị trí ông muốn sẽ có bão bụi.”
Quá trình thiết kế giao diện cho The Martian
Trong quá trình cộng tác với NASA, Territory đã phát triển một series concept độc đáo kết hợp giữa thực tế và cách kể chuyện phim nhưng vẫn hướng đến các công ước về UI (User interface – giao diện người dùng) hiện tại của NASA nhiều nhất có thể.
Đồ họa dựa trên kịch bản của Territory bao gồm bản sắc và ngôn ngữ hình ảnh cho mỗi set quay kể cả hình ảnh, văn bản, các đoạn mã và sơ đồ kỹ thuật, diễn họa 3D sẽ dựa theo các hình ảnh vệ tinh xác thực về bề mặt Sao Hỏa, thời tiết và các trang thiết bị cần thiết cho việc thám hiểm, điều hướng và hệ thống giao tiếp liên lạc như laptops, điện thoại, tablet và màn hình gắn trên cánh tay…
Việc này cần có quá trình và không hề đơn giản. Chẳng hạn như trong Avengers, chúng tôi đã làm rất nhiều công việc chi tiết cho bộ phim nhưng đồ họa mà khán giả xem có thể chỉ là đồ họa màn hình 20 giây trong một vòng lặp cần khoảng dưới một ngày để thiết kế và animate.
Do vậy, đây không chỉ mang đến chất lượng công việc mà còn là thực hiện công việc chất lượng đó ra sao dưới áp lực thời gian. Các artist thực hiện công việc đó cần được ghi nhận và tôn trọng.
Nguồn: jonnyelwyn.co.uk