Dựng phim trong thời kỳ đầu của điện ảnh Phần 2: Những bộ phim làm nên lịch sử trong nền điện ảnh

1/ Anh em nhà Lumiere, Arrival of a Train at a Station (1896)

Anh em nhà Lumiere bắt đầu thự hiện series phim trong một căn hầm được thuê tại Grand Café trên Boulevard des Capicines ở Paris, lần đó cũng là lần đầu tiên khán giả phải trả tiền để được xem phim. Một trong những bộ phim đó là L’arrivee d’un train en gare de la Ciolat vừa gây thích thú, vừa khiến khán giả kinh ngạc. Họ nói rằng dù chỉ là một thước phim quay một chiếc xe lửa đang chạy đến nhà ga, nhưng họ cảm thấy như mình đang tận mắt thấy nó đang lại gần mình.  Anh em nahf Limiere gọi những phim này là “những chuyện thực tế” hoặc phim tài liệu thể hiện nơi chiếc camera được đặt chỉ đơn giản quay lại bất cứ thứ gì diễn ra trước nó. Các bộ phim đời đầu khác còn kết hợp với các cảnh giải trí. Phải đến một thế kỷ sau, tiềm năng kể chuyện của phim mới được khám phá.

https://youtu.be/RjtXXypztyw

2/ Geoerge Melies, A Trip to the Moon (1902)

Le voyage dans la lune đã dựa trên bộ phim kinh điển Jules Vene. Bộ phim của Melies được quay trong một series hoạt cảnh khi mọi scene được tạo bởi các shot đại cảnh từ đầu đến cuối câu chuyện. Melies không cho phép chuyển động camera, việc dựng khung cảnh cho shot trong phim được gọi là proscenium (sân khấu), khi một shot được đặt trong khung cảnh tương tự như tầm nhìn của khán giả đang ngồi xem trực tiếp trước sân khấu. 30 scene của phim được kết nối bằng phương phpas dissolve (làm mờ). toàn bộ bộ phim dài khoảng 14 phút.

Trong thời kỳ đầu, đơn vị cơ bản của biên tập không phải là shot mà là scene

https://youtu.be/_FrdVdKlxUk

3/ Edwin Porter, The Great Train Robbery (1903)

Proter chính là người đã sáng tạo ra shot. Bộ phim The Great Train Robbery kết nối các scene sử dụng phương pháp cắt thay vì làm mờ (dissolve). Porter cũng sử dựng phương pháp cut away từ một scene trước khi scene đo skeets thúc. The Great Train Robbery chỉ có 12 phút bao gồm 14 shot. Một tiên sbooj khác trong tác phẩm này là cảnh chiếc xe lửa chuyển động xuất hiện phía bên ngoài cửa sổ của nhân viên điện tín. Một ví dụ khác ở shot 3, phong cảnh lướt qua cửa xe lửa. Proter cũng sử dụng các shot quay quét và shot 8 sử dụng tilt (các quay quét nghiêng từ trên xuống dưới) khi băng cướp rời khỏi tàu. The Great Train Robbery cũng là bộ phim điện ảnh đầu tiên dùng shot cận cảnh, mặc dù nhiều nhà nghiên cứu điện ảnh cho rằng shot này chỉ để quảng cáo thay vì hỗ trợ cho cốt truyện. Trong shot này (shot 14), tên thủ lĩnh băng cướp xuất hiện trong shot trung cận cảnh và bắn khẩu súng vào camera.

Đơn vị cơ bản của biên tập và shot và các shot kết nối với nhau bằng straight cut.

4/ D.W. Griffith, The Birth of a Nation (1915)

Griffith được xem là cha để của điện ảnh hiện đại. Ông đã chỉ đọa bộ phim The Birth of a Nation, bộ phim có dức ảnh hưởng lớn nhất mọi thời đại vì kỹ thuật sử dụng các shot cận cảnh và hành động song song. Griffith thay thế các shot đại cảnh và cận cảnh trong cùng một scene. Ông còn áp dụng cross-cutting, dựng phim song song để cho thấy nhiều sự kiện khác nhau đang xảy ra trong cùng một lúc. Ví dụ, cảnh tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát, Grtiffith sử dụng 55 shot, một số shot chỉ dài khoảng 1 giây để thể hiện mối tương quan giữa Lincoln, vệ sĩ của ông, khán giả và kẻ ám sát John Wilkes Booth và kết nối với nhau trong khoảnh khắc cuối cùng. Griffith cũng nổi tiếng khi cải tiến các sequence rượt đuổi bức tạp bằng cách cắt các shot ngày một ngắn hơn để tăng sự căng thẳng.

video phân tích thủ pháp hành động song song của các tác phẩm và sự hỗ trợ của nó trong kể chuyện.

5/ Sergie Eisenstein, Strike! (1925)

Đạo diễn người Nga Eisenstein chịu ảnh hưởng lớn từ các bộ phim của Griffith. Ông được gọi là cha để của thủ pháp Montage vì tác phẩm của ông đặt các hình ảnh mang tính biểu tượng và ẩn dụ bên trong câu chuyện được kể. Ví dụ tiêu biểu cho những thước phim montage đầu tiên của ông là Strike! mô tả những công nhân bị đàn áp và gia đình của họ bị cảnh sát giết hại. Einsenstein chèn các shot gia súc bị giết hại trong lò mổ làm hình ảnh ẩn dụ cho sự tàn bạo đó.

6/ Orson Welles, Citizen Kane (1941)

Bộ phim này thay đổi thể giới điện ảnh, sử dụng straight cut để tạo hiệu ứng gây sốc và dissolve để kết nối các scene. Dissolve là phương pháp phức tạp, kết hợp ánh sáng và các hiệu ứng khác nhau: đầu tiên, ánh sáng nền sẽ được làm mờ theo ánh sáng của foreground. Sau đó, ở shot tiếp theo, ánh sáng nền sẽ dần rõ lên theo ánh sáng của foreground. Ví dụ dưới đây sẽ cho thấy cảnh mở màn của bộ phim với phương pháp dissolve cho người xem thấy bên ngoài của lây đài Xanadu tới phòng ngủ phía bên trong nơi Kane thốt ra lời trăng trối nổi tiếng.

https://youtu.be/-r0b_XeRkG4

Post Author: Tu Vo